Chút nữa thì tôi đi hết những thứ quà đặc biệt của Hà Nội mà không nói
đến cái bánh tôm nóng, đã là sở ước và thú vị của suốt một đời học sinh.
Lúc bấy giờ đương là mùa rét. Gió lạnh bấc thổi vi vu qua khe cửa nhà
trường, làm thâm tím môi và cóng tay vài chục cậu học trò trong lớp.
Càng sung sướng biết bao khi ra ngoài cổng trường, ngồi xúm quanh cái
chảo mỡ nóng của bác hàng bánh tôm bốc hơi trên ngọn lửa ... Rồi hồi hộp
chờ đợi bác đong cái đĩa bột trắng, để lên trên hai ba con tôm khô,
điểm thêm mấy nhát khoai thái nhỏ, và dúng vào mỡ sèo sèo ...
Ruột
hơi se lại trước, chúng tôi nhìn cái bánh bột vàng dần, vàng dần co tôm
co lại, nhát khoai nở ra, và cái bánh hơi cong lên như nóng nảy muốn
nằm ra đĩa. Một mùi thơm ngấy tỏa nhẹ lên không khí, mà chúng tôi hút
một cách khoan khoái cùng với cơn gió lạnh phía Bắc về ... Chiếc kéo của
bà bán hàng thoăn thoắt cắt nhỏ ra từng miếng. Chúng tôi không kịp so
đũa, đã hỏi bác rót nước chấm có dấm chua và ớt bột thât cay. Và chúng
tôi ăn trong lúc bánh còn nóng hôi hổi, bỏng cả miệng, cả môi, cả lưỡi
chảy nước mắt vì ớt xông vào cổ họng, xuýt xoa cho vị bánh đượm lâu.
Ngon biết chừng nào!
Cái hăng hái, ngốn ngấu ấy, bây giờ không
còn nữa, và dẫu ta có muốn cũng không trở lại nào. Mỗi tuổi có một cái
thích khác nhau (và không ít gì lấy ở đây ra những điều triết lý).
Cái
vị bánh tôm mạnh mẽ bao nhiêu thì cứ bánh sau đây lại dịu dàng bấy
nhiêu. Tôi muốn nói thứ "bánh bò chê" trắng như sữa và nhẹ như bông ...
Không phải là thứ bánh của người bán hàng nào, nhất là không phải của
các người bán hàng Việt Nam, chỉ đem ra những cái bánh vừa nặng bột vừa
chua (Một lần nữa tôi nhận thấu cái kém của mình). Như là thứ bánh bò
của một chú Khách người tầm thước, nếu không hơi lùn; chú chỉ quanh quẩn
trong mấy phố gần trung tâm Hà Nội: Hàng Bè, Gia Ngư, Hàng Bạc, Hàng
Buồm ...Với một thứ tiếng rao riêng. Bánh chú bán hai xu một chiếc: đó
là bánh hình tròn, to bằng cái đãi chén chè, và phồng hai bên tựa như
chiếc bánh đúc nhà quê.
Hình như người khách mới biết cái thuật
cho bột được nhẹ, và sốp, bằng cách men. Cho nên chiếc bánh bò chê của
chú khách trên kia ăn rất nhẹ nhàng, với một cảm tưởng rất dễ tiêu, vì
bánh hơi ngon ngọt, thơm ngon, bột dẻo và bông như sợi tơ. Có thể cắn
một miếng to, nhưng rút lại vẫn vừa miệng, và đủ nóng bốc hơi để tỏa ra
cái mùi gạo mới. Kể là một thứ quà điểm tâm buổi sáng thì rất hợp, rất
thanh.
Tiện đây, tôi nhắc đến thứ cháo hoa buổi sớm cũng có người
Khách bán. Thứ cháo tên là "bạc chúc", gạo nhỏ biến và mịn như nhung,
thỉnh thỏang lại điểm cái vị thơm mát của ý dĩ, và cái vị bùi của thảo
quả. Hoặc ăn cháo không, hoặc ăn cháo với "dâu chặc quây", một thứ bánh
bột mì rán vàng và phồng, mà cái béo ngấy và sự ròn tan ra hòa hợp rất
kín đáo và rất mỹ thuật với cháo loãng. Trong thức quà buổi sớm đó, có
một cái nhỏ nhắn, tế nhị, và thanh tao; chỉ những người nào sau một đêm
mệt nhọc, đương háo hức, mới thưởng thức được hết.
Cũng một hàng
bánh làm bằng bột có men ấy, còn có một thứ đặc biệt, mà người Khách rao
là "chê cà cô", và người mình gọi nôm na là "bánh bò tàu" (lại Tàu".
Phải, nó là thư bánh bò Tàu chứ không phải bò Tây, hay bò ta. Và thế nó
ngon hơn nhiều lắm).
Cái thứ bánh ấy, lúc hấp gần chín, thì chất
men bốc hơi. Những bong bóng rất nhỏ, và rất nhiều, từ dưới đáy đi vút
lên, rồi vở ra ở trên mảng bột. Thành thử cái mặt bánh ấy có một hình
thù kỳ lạ, lỗ chỗ như rỗ hoa; và thân bánh rất xốp, từng sợi ghép vào
nhau, óng ánh như nhũ thách trong một cái động đá hoa. Bánh vừa dẻo vừa
ròn, trong cái ngọt lại thỏang cái hương vị chua, nên ăn một miếng lại
muốn ăn miếng nữa.
Tuy là thứ bánh của người Tàu, nhưng chừng
không phải bất cứ người Tầu nào cũng làm được. Thứ bánh đó, nghe đâu ở
Hà Nội chỉ có một nhà chuyên môn làm, và bán cất cho những người đi bán
hàng rong. Tôi ước ao rằng, ở nhà đó, thứ bánh ấy sẽ do tay một thiếu nữ
Tàu inh đẹp nấu, bởi vì người đẹp mà lại làm bánh ngon, thì đến trời
cũng không nhịn đừng ăn được.
- Thế là gần hết các thứ quà của Hà
Nội. Tôi nói gần hết bởi vì cũng còn nhiều thứ hàng ngày chúng ta vẫn
nghe rao, mà ở đây không nói đến. Phần thường, tôi chỉ chú ý đến những
thức quà vĩnh viễn, mà có chút gì đặc biệt, đáng yêu. Vì có nhiều thức
quà, tựa như sao băng vút qua bầu trời mùa hạ, hiện ra rồi lại mất đi,
không còn dấu vết gì để lại. Cái đời ngắn ngủi ấy, duyên cớ ở chỗ các
thức đó chỉ hợp với cái thị hiếu một thời: không phải chỉ ở trong y
phục, trong trang sức hay trong văn chương, mới có những cái "mốt",
những cái đua đòi mà thôi. Cả đến trong việc ăn uống cũng vậy. Người ta
theo nhau ăn thức quà này, cũng như người ta theo nhau mặc kiểu áo kia.
Và chỉ có những thức quà nào có những hương vị chắc chắn và phong phú,
mới có thể bền lâu được. Cũng như một cuốn tiểu thuyết, nếu không có cái
hay tiềm tàng, mà mỗi ngày một tỏ ra mới lạ, thì chỉ được hoan nghênh
nhất thời, hoặc dài hay ngắn. Sự bất tử ở văn chương và ở thực phẩm thật
có giống nhau.
Xét những thức quà của ta, thực có nhiều thứ quà
ngon, mùi vị rất dồi dào. Phần nhiều là thức quà có từ xưa, đã có nề
nếp, có quy củ hẳn hoi, và mang trong hương vị cái mùi ngon đằm thắm của
đất nước nhà. Sản phẩm của đồng ruộng, của núi sông, những thứ quà ấy
là dấu hiệu sự thưởng thức của người mình, vừatao nhã lại vừa chân thật.
Từ ông cụ đồ nho khẽ nhắp rượu để ngẫm nghĩ về cái vị ngon, đến bậc
mệnh phụ nhà gia thế, từ trong buồng the kín đáo và nghiêm cẩn, truyền
bảo cho cô gái tơ những bí mật của cách đổ bột, pha đường.
Đó là
những vật quý mà sự mất đi, nếu xảy đến, sẽ khiến người sành ăn ngậm
ngùi. Người mình ham thanh chuộng lạ, đã bắt đầu khinh rẻ những thứ đáng
yêu ấy, có cái ngon mà họ đã quên mùi vị. Một đằng khác, không ai chịu
để ý và hết sức làm cho mỗi ngày một hoàn hảo hơn lên, cải cách cho hợp
với thời mới. Những cái gia truyền dần dần mất đi, những cái khéo léo
không còn giữ được. Chúng ta đã khinh bỉ cái ăn, cái uống quá, tuy không
tự thú rằng những cái đó là cần, rằng tự mình vẫn thích. Giờ đến lúc
phải nên thẳng thắn, và thành thực: Trọng cái mình yêu và công nhận cái
mình thích.
>>> Những chốn ăn chơi
<<< Quà... tức là người
0 coment�rios:
Post a Comment