Thôi cũng là may: phe dân chủ ở Mỹ thắng, mình đã thấy ngay một cái lợi
là biết ăn canh rùa. Mới nghe, tưởng là đùa, nhưng sự thật quả là như
thế.
Từ thuở bé, sống ở Thủ đô Bắc Việt, ông bà tôi, rồi đến thầy
mẹ tôi, chỉ dung nạp được một thứ kêu là ba ba: ba ba tần, ba ba nướng
chả, ba ba om, ba ba nấu giả cầy (có đậu phụ, chuối xanh, lá tía tô...
Thượng đế ơi, ngon quá!)... nhưng đến cái con vật mệnh danh là con rùa
thì tối kỵ, không ai lại ăn đến cái thứ đó bao giờ. Quái, con rùa thì
khác gì con ba ba? Mà sao ăn ba ba lại không ăn rùa?
Có lúc tôi nghĩ như thế nhưng không dám hỏi.
Mãi
đến sau này, lấy vợ, có buổi mây chiều gió sớm, ngồi “đấu lý” với nhau,
tôi mới biết người hiền nội trợ phương Bắc không ăn rùa là vì thành
kiến từ ngàn đời xưa để lại:
Thương thay thân phận con rùa, Lên
đình đội hạc, xuống chùa đội bia Ở đình chùa nào, người ta cũng thấy con
rùa bằng đá hay bằng gỗ nên con rùa, không ai bảo ai, đã mặc nhiên
thành ra một con vật huyền bí, có tính cách thiêng liêng, phải tôn thờ,
phải kính cẩn, không được coi làm thường. Thôi, đừng có nói bậy, mà phải
tội bây giờ đấy. Người vợ hạ giọng xuống khẽ bảo chồng, như dạy dỗ, như
khuyên can:
- Rùa là đệ tử trung thành của Đức Phật từ bi đấy,
biết chưa? Ngày xưa, đã lâu lắm lắm rồi, lúc thầy Đường Tăng đi thỉnh
kinh bên Tây Trúc, chính là nhờ con rùa đấy, chớ không thì làm thế nào
mà đi được thiên sơn vạn thủy, đương đầu được với bao nhiêu quỷ sứ, yêu
tinh!? Thế cho nên thỉnh được kinh rồi, thầy Đường Tăng thành Phật thì
Đức Quan Thế Âm ngài cũng cho con rùa thành Phật luôn... Vì thế không
bao giờ nên ăn thịt rùa. Ăn vào thì xúi quẩy, lụn bại, không còn buôn
bán, làm ăn gì được!
Yêu nhau, bảo thế nào lại chẳng phải nghe.
Hai chục năm, sống ở bên cạnh người vợ bé nhỏ, một niềm kính Phật thờ
Trời, tôi không một phút nào dám nghĩ đến chuyện ăn thịt rùa. Mãi đến
tận gần đây, vào trong này, một biến cố lạ lùng xảy ra, khích động tính
tò mò quá mức, khiến cho người chồng đã có một lần quên hẳn lời người vợ
yêu để liều ăn một bữa thịt rùa xem sao. Nhưng mà cái việc liều lĩnh đó
không phải là không có cớ!
Ấy là vì khoảng dăm năm trở lại đây,
ngày vui của kẻ viết sách này có thể đếm trên đầu ngón tay mà ngày
buồân thì dằng dặc như trong đoạn kết bài thơ của vua Đường khóc người
đẹp họ Dương. Mình cứ rình một cơ hội gì để liều đổi thời vận xem ra thế
nào, thì trúng ngay vào lúc Tổng thống Eisenhower hết nhiệm kỳ, hai ông
Kennedy và Nixon tranh nhau làm Tổng thống.
- Nói chuyện dằng dai, dễ ghét!
-
Thì đã bảo mình đương buồn mà! Đêm vắng, nằm không ngủ được, mình mới
lôi những bài tuyên ngôn của hai ứng cử viên Tổng thống Mỹ ra coi, rồi
dây mơ rễ má, đọc luôn cả những bài văn cổ động cho hai ông. Một cuốn
sách tuyên truyền cho công dân Kennedy đã làm cho tôi chú ý: cụ thân mẫu
ra ông Kennedy, năm đó gần tám mươi tuổi, chính là trưởng ban tuyên
truyền của ông; các anh em ông đi khắp mọi nơi hô hào cử tri bỏ phiếu
cho ông không ngớt, nhưng giúp việc cho ông đắc lực nhất, chính là những
cô em gái ông hoạt động bất phân mộ dạ, dưới muôn vàn hình thức khác
nhau.
Các cô đi không còn thiếu một câu lạc bộ, một hội liên đới
phụ nữ nào; các cô diễn thuyết và lấy lòng phụ nữ cho ông anh; nhưng tài
tình nhất là cụ thân mẫu và các cô em của ứng cử viên Kennedy khéo làm
các bánh ngọt để biếu các bạn gái ở từng quận xã và không quên gửi kèm
theo một cuốn sách mỏng trình bày rất đẹp. Một cuốn thơ xanh mầu hy
vọng? Hay đó là một bản sao mấy bức danh họa của Gauguin, Van Dyck?
Không, thơ họa gì cũng không bằng. Cuốn sách nhỏ bé gửi biếu các cử tri
đó chứa đựng một bảo vật gia truyền của dòng họ Kennedy: bí quyết nấu
canh rùa. Xin mời các bạn gái cử tri trên toàn bộ nước Mỹ cứ theo đó mà
làm, các bạn sẽ tạo hạnh phúc cho chồng con và các bạn sẽ thấy thiên
đường không ở đâu xa, mà chính ở ngay trên trái đất!
Đọc thế,
tôi thấy hay hay; nhưng làm cho tôi suy nghĩ thực nhiều, phải là từ lúc
có tin điện loan truyền cùng thế giới: Kennedy đắc cử!
Không hiểu
tại làm sao từ đó, lúc nào tôi cũng nghĩ tới món canh rùa và, thường
đêm, vào lúc chập chờn sắp ngủ, tôi hay liên tưởng đến một cái đĩa tây
trắng cứ bong ra, đựng một thứ nước óng ánh vàng, trên thả một nhánh
tỏi, vài ba lát ra-đi, lập là lập lờ vài miếng thịt hung hung mầu vàng
ố! Phải, tôi tưởng tượng canh rùa của người Âu Mỹ như thế đó, nhưng
chẳng biết ăn thế thì có ngon không nhỉ? Người Âu Mỹ ăn thịt ngựa, thịt
ếch, ừ thì cũng được đi; nhưng bảo rằng họ thích canh rùa thì quả là từ
khi đọc tập sách cổ động cho ứng cử viên Tổng thống Kennedy, tôi mới
thấy lần đầu tiên như vậy. Rùa ăn có giống thịt ba ba không? Thịt nó dai
và nhạt? Và ăn uống thì cách thức làm ra thế nào, hở... cô Năm?
Tôi
có một cô bạn nhỏ quen nhau từ câu chuyện đi lấy lát ở Cồn Tranh dệt
chiếu và biết nhau từ một sáng thu đi hái lá so đũa nấu canh với cá cơm
để cùng ăn trong một túp lều tranh trên cồn. Yêu quá thể là yêu, cô gái
bé miền quê Sa Đéc! Này, có phải ở ruộng người ta cho bông hoa bằng lăng
này là biểu hiện của tình yêu mộc mạc không? Ờ mà quên mất nhỉ, bao giờ
em lấy chồng? Mà yêu nhau quá thế này, đến khi anh về thành với vợ, em
có buồn không?
Người con gái bé nhỏ không biết gì hết, ngoài
những chuỗi giờ dằng dặc ngồi bẻ bìa, móc chân làm chiếu kiếm tiền, chỉ
biết cặm cụi vào bếp để nấu hết món này đến món kia làm vui người bạn
mang nặng trong lòng nỗi biệt ly xứ sở.
Ăn uống không có gì hết
cả: vài trái điều xào với tôm, ăn vào một buổi chiều có gió hây hây; một
chén mủ trôm trưa hè; một nồi cá cháy không lột vỏ, không đánh vẩy, kho
lạt ăn với cơm nguội; một chén dế cơm chiên nhắm nhót buổi tối trước
khi đi nằm, hay mấy con ốc gạo cuốn theo lối bì cuốn chấm đẵm giấm ớt ăn
vào lúc đương xót ruột... Chỉ có thế thôi. Nhưng phải trông thấy tận
mắt người con gái bé nhỏ đó xào nấu, chế hóa các món ăn và đệ lên cho
mình dùng, ta mới có thể cảm thông được sự trang trọng lên cao đến mức
nào và ta không thể không nghĩ rằng những món quà hèn đó, đối với cô
Năm, còn quý hơn là các bà các cô ở thành trịnh trọng với sơn hào hải
vị.
Sinh làm con nhà nghèo, cô chỉ biết con cua, con ếch, lá rau
bò ngót, con cá nham rào, cùng lắm là miếng huyết heo luộc ăn với gạo
lúa đốc, chớ có bao giờ biết vây yến, sucút hay camămbe Ôsiđa là gì. Ăn
thịt con rùa, cố nhiên tôi phải hỏi cô Năm và cố nhiên một hôm tôi đã
được thưởng thức món rùa chính cống làm theo kiểu miền quê Nam Việt.
-
Trời ơi! Sao anh lại có thể ví con rùa với cua đinh? Có lẽ ở xứ sở anh,
người ta kêu cua đinh là ba ba, và em nghe các bà Bắc di cư nói chuyện
thì “ở ngoải” người ta ăn ba ba thường lắm, hoặc theo kiểu tần, hoặc
theo lối rán hay om với chuối xanh, đậu phụ, riềng, mẻ, điểm thêm mấy lá
tía tô hay rau ngổ. Ở đây, cũng vậy, người ta cũng ăn cua đinh, nhưng
cua đinh và rùa có hương vị khác hẳn nhau, cũng như thịt vịt ta không
thể như thịt vịt xiêm, hay không ai lại có thể so sánh con cá ngáp với
con cá sặt, chỉ vì lẽ cùng là loài cá.
Không ai bảo cho tôi biết ở
đô thị, người ta ăn thịt rùa theo cách thức nào, cũng như tôi chưa sưu
tầm được bí quyết nấu canh rùa của em gái cố Tổng tống Kennedy ra sao;
nhưng mấy món rùa của cô Năm nấu cho tôi thưởng thức hôm đó đã làm cho
tôi chợt cảm thấy như vừa mới nghe thoang thoảng đâu đây một hương lan
hòa với hương xuân lúc cùng với người yêu trèo lên một đỉnh núi cao trên
Đà Lạt.
Có những người sành ăn muốn thưởng thức món ăn gì, hết
sức giữ cho kỳ được vị của món đó trong khi chế hóa mới vừa lòng. Ăn
rươi, sợ tanh, mà cho gia vị đánh át mất cả vị của chính con rươi; ăn dê
hầm mà cho lá sả và tẩy gừng quá tay để cho mất mùi hoi, hoặc pha mắm
tôm ăn chả cá mà cho nhiều rượu và chanh quá, làm mất cả vị của mắm tôm,
ăn như thế tức là “ám sát” các vị căn bản của món ăn, “thực bất tri kỳ
vị”. Tôi thích món ba ba tần, ba ba hồng síu, ba ba om duyên dáng, triền
miên, nhưng ăn đến rùa mà thật gọi là “thưởng thức”, cần phải ăn theo
hai món chính mà cô Năm đã làm cho tôi. Đó là món rùa xào và món xé phay
gỏi bắp chuối.
Lúc còn ở ngoài Bắc, tôi đã được trông thấy một
con rùa to bằng cái nia lớn lên phơi nắng ở trước đền vua Lê. Rùa như
thế, tôi đã cho là lớn lắm nhưng sau này xem sách thì chưa thấm vào đâu
hết.
Trong hai mươi nhăm loài rùa sống ở trong trời đất, người ta
đã tìm thấy những con to bằng cả một cái chiếu rộng nhất, cân nặng tới
năm trăm kí, nhưng trái lại, lại có những con sống hàng trăm năm mà
không lớn hơn một bàn tay, ta có thể cho vào túi bađờsuy đi dạo mà không
ai thấy.
Người ta bắt nó ra sao? Ta thường vẫn tưởng chỉ có hai
thứ rùa: rùa núi và rùa sông, rùa sình. Thực ra, ngoài hai thứ đó, còn
có một thứ rùa biển nữa. Rùa biển ăn thịt cá, tôm và nhiều khi bắt vịt,
bắt le như chớp nhoáng; còn rùa sông, rùa sình thì thường ăn rêu, ăn sậy
nhưng cũng không chê tôm cá, nếu chẳng may những con này sa vào miệng
chúng; bởi vì rùa biển, rùa sông hay rùa núi đều có một điểm giống loài
chim là chúng có một cái miệng không răng mà hai mép thì rắn như sừng,
thường gọi là cái mỏ.
Những người ăn thịt rùa không thích những
thứ lớn quá vì ta có quan niệm cái gì lớn quá đều là thần hoặc là ma.
Rùa lý tưởng cho người ta ăn thịt là thứ rùa lớn bằng cái đĩa tây. Theo
các sách Âu Mỹ thuật lại thì từ năm 1708, người Âu châu đã thích ăn thịt
rùa, Đại úy Francois Leglat đã viết trong một cuốn nhật ký của ông:
“Thịt rùa cũng tựa như thịt trừu nhưng ăn thanh hơn nhiều”. Nhà thám
hiểm Marc Antoine Rendu ăn thịt rùa hả quá cũng viết: “Canh rùa là vua
canh” và không chê những con rùa kỳ lạ không có vảy nhưng toàn mình bọc
một tấm da như kiểu một nhà võ sĩ thời Trung cổ.
Con rùa cô Năm
làm cho tôi ăn hôm ấy không kỳ lạ đến như thế; nó giống như các con rùa
thường, chỉ khác mai nó hung hung vàng. Cô nói:
- Rùa ăn thế nào
cũng được, chỉ có một điều nên nhớ là thứ rùa quạ, mu đen như quạ, ăn
không tốt. Người ta lại bảo rằng ăn rùa quạ cũng như ăn cua đinh mà cụt
một cẳng thì dễ sanh bịnh cùi. Chẳng biết có đúng hay không? Con rùa mà
em mua được hôm nay là rùa vàng, ăn vào phát tài, anh dùng đi, chớ cứ
ngồi mà nhìn em hoài vậy ư?
Cô Năm tiếp thêm cho tôi một miếng rùa xé phay. Cô nói:
-
Anh ăn đi, ngọt lắm. Em làm kỹ, không có sợ đau bụng đâu. Người ta bảo
rằng làm cái giống rùa này mà không lau cho khô nước thì dễ sinh đau
bụng. Anh đã thấy em làm rồi đấy: thịt khô mà chín nhừ. Có người cho lên
lò nướng rồi tróc mu ra. Em không thế. Em cho vào nồi, trong nồi có sẵn
muối hột; em rang muối, khi nào muối nóng thì bỏ rùa vào.
Thấy
muối nổ cũng đừng bắc ra vội; phải đợi cho muối vàng và tan thành bột,
hãy bắc nồi ra. Lúc đó, rùa mới thực chết và thịt nó lúc ấy mới thực
săn. Em cậy nắp ra, bỏ ruột, có trứng thì lấy trứng; đoạn, lấy dao lách
thịt, xé phay, cuốn bánh tráng, gia đậu phộng, rau răm và hẹ, như thế
này. Anh phải chấm đẫm nước mắm ớt có pha giấm và đường, ăn với đồ chua
mới ngon, anh à.
Ăn kiểu này thì thưởng thức được chân vị của
món thịt rùa; người ta thấy thoang thoảng một chút tanh tựa như cái tanh
của sò, của hến, thêm cái chất ngọt của thịt gà chân chì mà lại man mát
tựa như thịt vịt xiêm. Thú thực là tôi không thấy cái gì “tựa thịt
trừu” như lời Đại úy Leglat đã nói, song ăn đến cái nước lèo rùa luột
thì phải nhận là ngon, nhưng cái ngon đây vẫn không phải là cái ngon đáo
để của thịt trừu, hay thịt bò con, mà là cái ngon dịu hiền, thanh cảnh
và kín đáo, tựa như món gà giò nấu với sa sâm, ý dĩ, thêm chất tanh tanh
thú vị của món hà mà ta ăn sống ở trên bờ biển Vũng Tàu hay Long Hải.
Ông
nào cho ăn như thế là thanh cảnh quá, muốn đậm đà hơn một chút, nên
dùng món rùa xào: thịt rùa rang lên rồi chặt ra từng miếng bằng con cờ,
cho vào chảo xào với củ hành, gia thêm thứ rau gì tùy ý, xúc ra đĩa, ăn
luôn với một hai tớp rượu đưa cay, ta cảm như ăn ba ba hồng síu của Tầu.
Nếu cho vào nồi gia nước, đun lên và bỏ thêm mấy miếng su su, cà rốt,
tống cú và vài cái chân gà ác hầm lên, ta sẽ cảm thấy cái vị ba ba cáy
dùng.
Nhưng ăn thực cho thích khẩu những người sành thường dùng
món rùa hấp cách thủy: thịt rùa chặt ra từng miếng nhỏ, cho đúng phân
lạng sa sâm, ý dĩ, đại quy và bạch thược, đợi cho thịt rùa thật chín và
mềm, đem ra ăn, sướng ông thần khẩu không chịu được.
Hấp cách thủy như thế hơi lâu.
Trong
khi chờ đợi, những ông bợm nhậu có thể lấy mấy cái chân rùa ra nướng
lên nhấm nháp. Chân rùa nhiều gân; ta cạp chân gà thế nào thì gân chân
rùa cũng từa tựa như thế; nhưng có nhiều người bảo gậm chân rùa “không
có sướng” bằng lấy những cái vẩy trên mai nó nướng cháy lên mà nhắm rượu
- chết chửa, giòn cứ tanh tách mà bùi quá thể là bùi! Này, các trái
“noa” của Tây, tôi đố có thể đem ra mà bì được đấy!
Rùa cách thủy
đã được rồi đấy, mời ông lấy ra dùng. Húp mấy thìa thử mà coi, ông thấy
mát ruột liền; nước không béo nhưng ngọt; mùi tanh của rùa quyện lấy
mùi ý dĩ, bạch thược tạo nên một vị riêng tựa như thịt nai tơ, mà lại
tựa như thịt rắn, nhần nhận, the the, mà lại trơn lừ cuống họng như canh
yến. Ăn mà sướng khẩu cái như thế, chẳng là đã quá rồi sao? Nhưng có
những người kỳ lắm, phàm ăn món gì lạ là cố tìm ra vài tính chất bổ béo
của nó cho kỳ được mới nghe. Vì thế có ông bạn đã nghiêm khắc bảo tôi:
- Trời! Nếu rùa mà chỉ có thế thì đâu có quý! Nó quý vì cái khác kia...
- Bẩm, cái khác ấy là cái gì?
-
Con rùa cũng như con trâu, ông ạ, không có một bộ phận nào của nó mà
không được việc. Cái mu và cái yếm của nó đem phơi dùng để bói và làm
thuốc chữa cam phổi, cam gan, cam thận, cam tim của trẻ con; mật nó phơi
khô trị chứng đau răng hay lắm, còn thịt nó thì không thể nào nói
xuể... người ta bảo ăn được trăm ngày thì vợ chồng yếu sẽ mạnh, có ông
già sáu mươi tám tuổi lấy vợ hai mươi chín tuổi mà bốn năm sanh liền hai
đứa con trai đấy!
Tôi tiếc là lúc viết bài này không có sách
“Kinh nghiệm Y lý Đông phương” để truy cứu xem những lời nói của ông bạn
đúng được bao nhiêu phần trăm; nhưng có một điều tôi biết chắc là chính
giống rùa mạnh lắm, có một sức sống tuyệt kỳ, mà lại sống lâu như Bành
Tổ.
Năm 1938, người ta đã tìm thấy ở Mỹ những con rùa mà ở trên
mu còn hằn những vết đạn hồi bảy mươi nhăm năm về trước, lúc xảy ra cuộc
Nam Bắc phân tranh.
Lại vừa đây, người ta mới bắt được một con
rùa trên mu có khắc số 1844. Thì ra con rùa này sống ít nhất cũng được
trên 120 năm nay và xem bộ dáng thì vẫn còn mạnh lắm.
Nhưng phá
kỷ lục sống dai - theo sự hiểu biết có hạn của những nhà tự nhiên học -
thì là con rùa mà người ta đưa tặng Nữ hoàng Eugénie. Theo nhà nghiên
cứu Ambroise Randu, lúc con rùa này theo Nữ hoàng đi Ai Cập để khánh
thành kinh đào Suez nó đã được 140 tuổi trời. Giữa đường, nó bị lạc. Mãi
về sau, người ta mới thấy nó - nhưng thấy ở đâu? Ở vùng Kim Tự Tháp!
Quốc vương Farouk đệ Nhị (Farouk II) nuôi nó trong Hoàng cung. Bây giờ
nó là “thượng khách” của vườn thú Le Caire, thủ đô nước Cộng hòa Ả Rập
Thống nhất và tính đến nay được hơn 250 tuổi.
Ở phương Đông, rùa
là một trong tứ quí (lân, ly, qui, phượng), không những là vì rùa báo
điềm lành, mà còn được coi là tượng trưng của tuổi thọ của con người.
Thực ra, rùa không những sống lâu mà lại còn mạnh lắm. Các nhà tự nhiên
học cho biết một con rùa núi bình thường có thể “cõng” một đứa trẻ trên
lưng mà đi lại thong thả hàng cây số. Một con rùa lớn ở Mỹ có thể chở
phăng phăng một “gi ay”(1) nặng bảy mươi kí trên cái mu đường kính bốn
mươi lăm phân của nó.
Thế kỷ trước, nhà bác học Thụy Điển
Alexandre Kestern muốn giữ xác một con rùa làm kỷ niệm, tìm cách giết nó
đi mà loay hoay hàng tháng không biết giết nổi. Thoạt đầu, ông ta treo
con rùa lên cao, cho đầu nó vào trong một thùng phuy nước, và lấy dây
buộc cổ nó lại, để cho nó ngạt hơi dần. Nó vẫn “sống nhăn”. Kestern lấy
một cái kim bự đâm thấu óc nó: nó vẫn cứ sống luôn. Ông ta bèn ngâm nó
vào rượu có pha chất cyanure de potassium: Vô ích nốt. Rút cuộc, ông
phải áp dụng phương pháp của “ông Sài Gòn”: trảm thủ nó như là trảm
Trịnh Ân! Một tuần sau thân thể nó còn cựa quậy, bốn chân duỗi ra và
thụt vào trong mu, còn cái mỏ thì vẫn cắn!
Một con vật dai sức và
sống dai như thế, cố nhiên phải là con thịt lý tưởng của những nhà dinh
dưỡng muốn tìm sức mạnh bằng món ăn.
Thuở nhỏ, học ngụ ngôn của
La Fontaine, chúng ta thường vẫn yên trí rùa là một giống vật chậm chạp
và không hoạt động: sự thực, không phải thế. Có nhiều giống rùa biết lội
còn giỏi hơn cả cá, hàng triệu cây số lận; còn rùa núi, rùa cạn thì ở
Anh, người ta đã thấy có con đi du lịch tới 350 cây số trong vòng hai
năm. Rùa ở đảo Galapagos đi thủng thỉnh từ năm đến bảy cây số một ngày,
không biết mỏi; nhưng lạ vào bực nhất là ở Đông Dương có một giống rùa
leo núi như khỉ và trèo lên cây để kiếm thức ăn như vượn.
Ăn một
món ăn lạ mà vừa nhấm nhót mà lại vừa cảm thấy ly kỳ như thế, ai mà lại
không thấy lòng mình phơi phới như có cánh bay. Cô Năm đứng dậy, đi
thủng thỉnh vào nhà trong, lật cái lồng bàn, bưng ra một cái đĩa, đặt
trước mặt tôi và nói:
- Thế nào? Anh ăn thịt rùa thấy làm sao?
- Cũng được, là lạ miệng.
- Nhưng chưa thấm với cái này...
- Gì vậy?
- Trứng rùa. Ăn rùa mà không thưởng thức trứng, tức là chưa ăn rùa vậy.
Tôi
nhón tay cầm một cái trứng lên coi. Luộc rồi, trứng rùa có sắc trắng,
tròn và nổi lên những tia máu đỏ. Nó lùng bùng nhưng dai, cắn vỡ thì có
nước và một cái màng mầu vàng sẫm. Cái trứng đó vừa mút vào thì đã trôi
đến cổ rồi, nhưng đừng có nuốt vội vàng, hỡi người bạn háu ăn! Thử cắn
nhỏ nhẹ những cái trứng đó ra, anh sẽ thấy nó rắn hơn tròng đỏ trứng gà,
mà quánh như sáp, vừa nhai vừa ngẫm nghĩ thì có ý bùi hơn và cũng thanh
hơn. Này, ăn thêm một hai cái nữa, tuyệt trần, phải không anh?
Ô, thảo nào các nhà tự nhiên học không ngớt ca tụng trứng rùa.
Sách
thuật rằng vào khoảng dăm chục năm về trước, ở Căm Pu Chia, công việc
kiếm trứng rùa được qui định theo một sắc lịnh của nhà vua, và trứng của
những con rùa quí ở sông đều phải đem “tiến” cũng như hồi trước nước ta
“tiến” lên nhà vua nhãn, quế, vải, cốm hay vây, yến. Sở dĩ vậy là vì
trứng rùa ăn thích khẩu, đã đành, mà còn vì một lẽ nữa là nó hiếm.
Cứ
vào mùa “con nước”, rùa cái cũng “động đực” như heo nái vậy. Đương sống
thanh nhàn, tĩnh mịch, các “em” kéo nhau đi tìm “chất đàn ông” không
phải vì “nhớ đến tên các anh viết trên lá, trên hoa, viết trên vú trên
mông”, nhưng chính là để “giết cái sầu cô độc, xây mùa tình ái, dựng
niềm yêu... thế hệ”!
Ôi chao, các cậu rùa lúc đó “lấy le” dữ quá.
Y như các bố trẻ “lưu manh” lộng hành ở các quán nước hiện nay để chiếm
lòng các nữ ca sĩ, các cậu rùa giao chiến cực kỳ ác liệt cắn nhau chí
chóe và tìm đủ các miếng khóa “ta ki đô” để vật ngửa nhau ra. Anh nào
thắng, dắt em yêu đi hưởng tuần trăng mật - một tuần trăng mật kéo dài
tới hàng tuần, có khi tới gần một tháng!
Mắn thế! Chẳng mấy hồi,
cô rùa đã có bầu. Thường thường, cô đẻ mươi mười lăm trứng, nhưng người
ta đã từng thấy có những con rùa biển lớn đẻ tới ba, bốn trăm trứng làm
ba lần. Nhưng dù là thuộc loại rùa biển, rùa sông, rùa đất hay rùa núi,
chúng cũng cào đất mà chôn trứng xuống, vì thế, trứng rùa khan hiếm và
do đó thành ra món “tiến”.
Vừa ăn thịt rùa, vừa nhẩn nha suy
nghĩ, một mình như thế, mình tự nhiên thấy trứng rùa đã ngon lại ngon
quá chừng là ngon, mà thịt rùa đã quí lại quá chừng là quí. Và mình
tưởng chừng như lúc ấy cô Năm có làm ba con rùa nữa mình cũng cứ ăn...
bay!
Đêm ấy, trăng chiếu xuống mảnh giường kê ở ngoài vườn. Tiếng
con “kuềnh quang” và con trằng hiu ru tôi vào những giấc ngủ đầy những
mộng lành: tôi thấy mình lại dẻo dai như hồi hai mươi tuổi và đi mãi, đi
mãi, qua thiên sơn vạn thủy như rùa, đến một cuối trời kia có mây xanh,
gió tím... và ở một bên bãi lau có gió thổi hắt hiu, tôi bỗng thấy một
người yêu đã mấy năm nay không gặp!
0 coment�rios:
Post a Comment